GIUN LƯƠN - STRONGYLOIDES STERCORALIS

Giun lươn là một bệnh ký sinh trùng lây qua da và niêm mạc. Vùng lưu hành nhiều nhất là Đông Nam Á (trong đó có Việt Nam).

GIUN LƯƠN - STRONGYLOIDES STERCORALIS

Ở nước ta từ Lâm Đồng cho đến Cà Mau tỷ lệ nhiễm giun lươn là khá cao trong dân số. Khi nhiễm bệnh, giun lươn tồn tại rất lâu trong cơ thể, gây ảnh hưởng trực tiếp đến các cơ quan trong cơ thể mà chúng di chuyển qua như: da, tiêu hóa, phổi, thực quản, hạch bạch huyết.... gây ra nhiều triệu chứng như nổi mề đay, ngứa da, có khi đau bụng, rối loạn tiêu hóa, ho kéo dài và nhiều biến chứng nguy hiểm có thể đe dọa tính mạng người bệnh.

1. GIUN LƯƠN THƯỜNG KÝ SINH Ở ĐÂU TRONG CƠ THỂ?

Khởi đầu là nhiễm ấu trùng giun lươn có tên khoa học là filariform, ấu trùng này xâm nhập vào cơ thể qua da hoặc niêm mạc từ đất bị nhiễm. Sau đó nhiễm ấu di chuyển đến phổi và xâm nhập vào khoang phế nang; di chuyển qua cây phế quản đến vùng hầu họng, sau đó được nuốt xuống dạ dày ruột non.

Tại ruột phát triển thành giun lươn trưởng thành gây bệnh tại ruột, giun lươn cái xuyên thủng niêm mạc ruột chui vào sống trong thành ruột gây viêm loét ở đoạn tá tràng. Giun cái đẻ trứng trong thành ruột khoảng 50-70 trứng mỗi ngày. Trứng nở ra ấu trùng, ấu trùng chui ra lòng ruột và theo phân ra ngoại cảnh. Ở ngoại cảnh ấu trùng tiếp tục lây nhiễm cho người.

II. BỊ NHIỄM GIUN LƯƠN THƯỜNG CÓ BIỂU HIỆN GÌ?

Lươn cấp tính

Dấu hiệu ban đầu của giun lươn cấp tính là ngứa cục bộ, ban đỏ phát ban ở vị trí thâm nhập da. Bệnh nhân sau đó có thể có biểu hiện kích thích khí quản và ho khan do ấu trùng di chuyển tới phổi và khí quản. Sau đó ấu trùng tiếp tục di chuyển tới thực quả và được nuốt vào đường tiêu hóa, bệnh nhân có thể bị tiêu chảy, táo bón, đau bụng, chán ăn. ngứa hậu môn, sụt cân nhẹ. Đau bụng có thể ở bất cứ vị trí nào nhưng thường hay đau vùng trên rốn và vùng bên phải. Vì vậy dễ chẩn đoán nhầm là đau bao tử; đau do gan mật; đầy hơi trướng bụng.
Lươn mạn tính

Lươn mạn tính thường ít biểu hiện triệu chứng, đôi khi rối loạn tiêu hóa, ngứa, ban đỏ thâm nhập da là phổ biến nhất. Những biểu hiện ở đường tiêu hóa như là: đau vùng thượng vị, tức bụng sau khi ăn, ợ nóng, tiêu chảy hoặc táo bón. Các triệu chứng giống như bệnh viêm ruột, chủ yếu là viêm viêm loét tá tràng được chẩn đoán qua hình ảnh nội soi

Các triệu chứng ở da bao gồm mày đay mạn tính, dầy hơn các vết bầm máu (currens) nốt dát sần serpiginous dạng ecpet tái phát nhiều lần hoặc phát ban mày đay dọc theo mông, đáy chậu và đùi.

Hội chứng Hyperinfection và lươn phổ biến (Hội chứng tăng nhiễm)

Hội chứng tăng nhiễm ấu trùng giun lươn là một trong những đặc điểm lâm sàng nặng của bệnh giun lươn và có tỷ lệ tử vong cao hơn 85%. Hội chứng được đặc trưng bởi bệnh nhân mang một lượng lớn ấu trùng từ chu trình tự nhiễm và hầu hết thường gặp trên các bệnh nhân suy giảm miễn dịch.
III. CHẨN ĐOÁN BỆNH GIUN LƯƠN DỰA VÀO
1. Lâm sàng: dựa vào các triệu chứng sau:
- Đau bụng: đau âm ỉ, có lúc thành cơn.
- Đi cầu: có biểu hiện rối đôi khi phân lỏng.
- Nổi mề đay, ngứa, khó chịu, thường xuất hiện ở mông, lưng, tay, đùi (Nếu giun ký sinh dưới da)...
- Hội chứng tăng nhiễm.
2. Cận lâm sàng:
2.1. Xét nghiệm.
- Xét nghiệm phân tìm ấu trùng trong phân.
- Xét nghiệm đàm nếu có ho khạc đàm.
- Chẩn đoán huyết thanh ELISA.
IV. ĐIỀU TRỊ.
Nguyên tác ưu tiên điều trị nguyên gây bệnh, kết hợp điều trị viêm da, giảm ngứa.
- Điều trị thuốc đặc hiệu.
- Điều trị triệu chứng, giảm đau, kháng viêm, kháng Histamin,
- Tất cả các bệnh nhân có nguy cơ nhiễm giun lươn lan tỏa (Disseminated Strongyloidiasis) đều cần phải được điều trị tại tuyến chuyên khoa
- Những ổ giun lươn dưới da có thể phẫu thuật để lấy giun lươn (Đã có ảnh trực tiếp trên Facebook)

V. ĐIỀU TRỊ KHÔNG TRIỆT ĐỂ CÓ THỂ GÂY CÁC BIẾN CHỨNG NGUY HIỂM DO ẤU TRÙNG DI CHUYỂN LẠC CHỖ

- Ở hệ thần kinh: ấu trùng giun lươn phát triển trong lòng ruột sau đó xuyên qua thành ruột, theo máu đi thẳng lên hệ thống thần kinh trung ương gây viêm não, màng não, áp-xe não và xuất huyết não khiến cho nhiều thầy thuốc lâm sàng chẩn đoán nhầm với một số bệnh lý viêm màng não do virut, vi khuẩn, lao, nấm... Đây là một trong những tổn thương nặng nề, nguy hiểm và tử vong nhiều nhất.

- Ở hệ hô hấp: giun lươn còn có thể gây ra viêm phổi, áp-xe phổi, xuất huyết phổi gây khó thở...

- Nhiễm khuẩn huyết: Biến chứng của viêm da là một trong những nguyên nhân gây nhiễm khuẩn huyết, bên cạnh đó sự di chuyển tự do của giun lươn trong cơ thể cũng góp phần gây nên biến chứng này.

- Ở hệ tiêu hóa: ký sinh trùng ký sinh trong thành ruột đẻ chứng ở đó gây biến chứng viêm ruột, tắc ruôt, thủng ruột, xuất huyết tiêu hóa, tắc nghẽn đường mật. Ngoài ra bệnh còn gây tổn thương trên nội tâm mạc, viêm tụy, suy gan, suy thận.

- Ở hệ thần kinh: ấu trùng giun lươn phát triển trong lòng ruột sau đó xuyên qua thành ruột, theo máu đi thẳng lên hệ thống thần kinh trung ương gây viêm não, màng não, áp-xe não và xuất huyết não khiến cho nhiều thầy thuốc lâm sàng chẩn đoán nhầm với một số bệnh lý viêm màng não do virut, vi khuẩn, lao, nấm... Đây là một trong những tổn thương nặng nề, nguy hiểm và tử vong nhiều nhất.

Người mắc bệnh giun lươn cần được theo dõi và điều trị tại có sở y tế có chuyên khoa ký sinh trùng.

VI. PHÒNG BỆNH

- Việc điều trị giun lươn còn nhiều hạn chế, tỷ lệ tái nhiễm cao do thiếu quan tâm của các thầy thuốc lâm sàng. Với phương châm phòng bệnh hơn chữa bệnh, nên lưu ý các vấn đề sau đây để hạn chế sự nhiễm bệnh, tái nhiễm, và lây lan trong cộng đồng:

- Vệ sinh môi trường: Quản lý tốt phân, nước, rác

- Vệ sinh cá nhân, không phóng uế bừa bãi

- Áp dụng các biện pháp phòng hộ trong lao động và sinh hoạt hàng ngày. Những người thường hay tiếp xúc với đất nên mang găng tay, đi giày dép, đi ủng.

- Nên chủ động khám, xét nghiệm định kỳ 6 tháng hoặc 1 năm một lần

- Nâng cao sức đề kháng cơ thể, ăn nhiều rau, trái cây tươi, luyện tập thể thao hàng ngày để bảo vệ và tăng cường sức đề kháng của cơ thể, tránh tình trạng suy giảm miễn dịch làm bùng phát bệnh giun lươn lan tỏa.